Morrow Mountain II: Hàng trên cùng: thạch anh, thạch anh, ryolit, tuf; Hàng dưới cùng: tuf, tuf, tuf, thạch anh, thạch anh.
Kiểu Thuôn nhọn Trung cổ
Định nghĩa các thuộc tính
Mũi kiếm Morrow Mountain II có lưỡi kiếm dài, hẹp với thân kiếm thon dài.
Niên đại
Mũi Morrow Mountain II có niên đại từ thời Trung Cổ, 4800 đến 4200 TCN. Coe (1964) thảo luận về mối quan hệ giữa các loại Morrow Mountain I và Morrow Mountain II tại Di chỉ Doerschuk ở Piedmont, Bắc Carolina. Kiểu Morrow Mountain II có thể là một biến thể của Morrow Mountain I; tuy nhiên sự phân bố của Morrow Mountain II tại Di chỉ Doerschuk lại khác với Morrow Mountain I. Coe lưu ý rằng sự hiện diện của các điểm Morrow Mountain II ở các vùng sau này có thể là kết quả của các nhiễu loạn xâm nhập hoặc có thể chỉ ra rằng dạng này là dạng chuyển tiếp và tồn tại đến thời điểm sau đó. Bằng chứng từ các địa điểm khác trong khu vực ủng hộ cách giải thích sau. McAvoy (1997) cho rằng khoảng thời gian từ 4800 đến 4200 TCN dựa trên ngày tháng bằng cacbon phóng xạ (4520+/-90 TCN) thu được từ Địa điểm Slade.
Sự miêu tả
- Lưỡi kiếm: Lưỡi kiếm dài và hẹp với các cạnh thẳng hoặc hơi tròn. Lưỡi dao tương đối ngắn ở một số ví dụ dường như là kết quả của việc đã được gia công lại hoặc mài lại.
- Gốc: Gốc nhọn, thân dài và thon. Vai và thân có xu hướng cong vào nhau và có một góc gãy rõ ràng hơn so với loại Morrow Mountain I.
- Kích thước: Chiều dài dao động từ 30 đến 80 mm với chiều dài trung bình là 60 mm. Chiều rộng dao động từ 18 đến 30 mm với mức trung bình là 20 mm. Độ dày dao động từ 6 đến 10 mm.
- Kỹ thuật sản xuất: Tương tự như loại Morrow Mountain I, các điểm lớn hơn có vẻ là kết quả của quá trình gõ trực tiếp và các điểm nhỏ hơn đều được hoàn thiện bằng cách tạo vảy áp lực. Tuy nhiên, khác với loại Morrow Mountain I, loại Morrow Mountain II không có dấu hiệu mài hoặc làm mịn ở vai hoặc thân.
Cuộc thảo luận
Điểm Morrow Mountain II phát triển từ điểm Morrow Mountain I. Truyền thống thân cây thon dần, được giới thiệu bởi các điểm Morrow Mountain, có thể đã hoặc chưa bị loại bỏ, để được phục hồi bởi loại điểm Cattle Run (1900-10000 TCN) vào thời kỳ Hậu kỳ Cổ đại.
Được định nghĩa trong Văn học
Coe (1964) ban đầu định nghĩa loại này dựa trên các điểm thu được từ Địa điểm Doerschuk ở Piedmont, Bắc Carolina.
Tài liệu tham khảo